Wednesday, August 22, 2012

Cây cúc tần


Cúc tần còn có tên khác là cây lức, từ bi, phật phà (Tày), là loại cây bụi, cao 1-2m. Cành mảnh, có lông sau nhẵn. Lá mọc so le, màu lục xám, mép khía răng, gần như không cuống. Hoa tím nhạt, hình đầu, mọc thành ngù ở ngọn. Quả nhỏ, có cạnh. Toàn cây có lông tơ và mùi thơm. Trên cây thường có dây tơ hồng mọc và sống ký sinh.
Cây mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở khắp nơi. Toàn cây (lá, cành, rễ) đều có thể dùng làm thuốc. Lá thường dùng tươi (hái lá non và lá bánh tẻ) thu hái quanh năm, cành và rễ thường dùng khô. Theo nghiên cứu lá chứa 2,9% protein. Toàn cây có acid chlorogenic, tinh dầu.

Theo y học cổ truyền, cúc tần có vị đắng, cay, thơm, tính ấm. Công dụng tán phong hàn, lợi tiểu, tiêu độc, tiêu ứ, tiêu đờm, sát trùng, làm ăn ngon miệng, giúp tiêu hoá. Thường dùng chữa cảm sốt không ra mồ hôi, nhức đầu, thấp khớp, đau lưng, nhức xương, chấn thương,…

Một số đơn thuốc có sử dụng cúc tần:

Chữa cảm sốt không ra mồ hôi, nhức đầu: Lá cúc tần tươi 2 phần, lá sả một phần, lá chanh một phần (mỗi phần khoảng 10g) đem sắc với nước, uống khi còn nóng. Cho thêm nước vào phần bã đun sôi, dùng để xông cho ra mồ hôi, có tác dụng giảm sốt, giải cảm.

Chữa đau mỏi lưng: Lấy lá cúc tần và cành non đem giã nát, thêm ít rượu sao nóng lên, đắp vào nơi đau ở hai bên thận.

Thấp khớp, đau nhức xương: Rễ cúc tần 15-20g, sắc nước uống. Có thể phối hợp với rễ trinh nữ 20g, rễ bưởi bung 20g, đinh lăng 10g, cam thảo dây 10g, sắc uống. Dùng 5-7 ngày.

Chữa đau đầu do suy nghĩ nhiều, tinh thần căng thẳng: Cúc tần 50g, hoa cúc trắng 50g (xé nhỏ), đu đủ vừa chín tới 100g, óc lợn 100g. Cho cúc tần, hoa cúc trắng, đu đủ vào nồi, thêm 1 lít nước đun sôi. Sau đó cho óc lợn vào đun thêm 20 phút cho nhừ là ăn được. Ăn nóng trước bữa cơm, 2 lần/ngày, ăn liền 1 tuần.

Chữa ho do viêm khí quản: 20g cúc tần già rửa sạch, băm nhỏ, 2 nắm gạo, 3g gừng tươi, cắt nhỏ, 50g thịt lợn nạc băm nhuyễn. Tất cả đem nấu cháo chín nhừ. Ăn nóng khi đói, ngày 3 lần, ăn liên tục 3 ngày sẽ đỡ.

Chữa chấn thương bầm tím: Lấy một nắm lá cúc tần rửa sạch, giã nát nhuyễn đắp vào chỗ bầm tím sẽ mau lành.

Cúc hoa


Cúc Hoa, miền Nam gọi là Bông cúc. Tên Latinh của vị thuốc Cúc hoa (theo Dược Điển Việt Nam in lần thứ nhất, tập 2, Nhà xuất bản Y học 1983, tr.110) là Flos Chrysanthemi, thuộc họ cúc Compositae = Asteraceae thì vị thuốc này, theo thực vật gọi là cụm hoa đầu, nhưng nhân dân thường gọi là “hoa” mặc dù đó chỉ là nhiều lá hoa nhỏ tụ họp lại.
Có 2 loại:

Kim cúc (Chrysanthemum indicum L. = Chrysanthemum japonicum Thunb.). Cúc hoa vàng nhỏ như khuy áo, màu vàng, dễ trồng, dễ mọc.

Bạch cúc (Chrysanthemum morifolium Ramatuelle = Chrysanthemum sinense Sabine).Cúc hoa trắng, tốt hơn, hiếm hơn, thường dùng để ướp trà.

Cúc hoa vàng là loại mọc đứng, thân có khía, không lông. Lá trái xoan, nhọn chia thuỳ sâu, thuỳ kéo dài có nhiều răng, mặt trên và mặt dưới đều màu xanh lục.

Đầu hoa màu vàng xếp thành ngù, cuống ngắn: các lá bắc trái xoan ngược, thuôn dài, tất cả đều khô xác ở mép, có màu sẫm hơn.

Cây cúc được trồng ở nước ta để lấy hoa làm thuốc hay ướp chè, nấu rượu. Trồng nhiều nhất là ở các làng Nghĩa Trai (Hưng Yên), Nhật Tân (Hà Nội) và Tế Tiêu (Hà Tây), Nam Hà...

Trong Cúc hoa có các axít amin như adenin, cholin, stachydrin và vitamin A. Trong tinh dầu của loài Chrysanthemim sinense var.japonicum có dl - camphor C10H16O. Sắc tố của hoa là chrysanthemin (asterin, kuromamin) C21H20O11 khi thuỷ phân sẽ được glucoza và cyanidin C15H11O6. Cây chứa tinh dầu trong đó có chrysol, chrysanthenon, và vejuhualacton, artoglasin A, acaciin, linarin, chrysanthemin. Chất màu của hoa cúc là các carotenoit: chrysanthema - xanthin C40H56O3. Các sắc tố màu vàng có Luteolin dưới dạng glycozit. Còn có các hydrocacbon: n hexacosan C26H24, n -tetracosann.

Tính vị, công năng: Cúc hoa vàng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải cảm, tán phong thấp, giáng hoả, giải độc, làm sáng mắt .

Thường dùng trong các trường hợp:

Phòng cảm lạnh, cúm, viêm não .

Viêm mủ da, viêm vú.

Hoa mắt, chóng mặt, nhức đầu, huyết áp cao .

Đau mắt đỏ, chẩy nhiều nước mắt.

Viêm gan, kiết lỵ .

Dùng ngoài trị đinh nhọt, rắn cắn, chấn thương, bầm giập .

Liều dùng: 8-12g hoa hoặc 15-20g cành lá dưới dạng thuốc sắc. Dùng ngoài giã đắp không kể liều lượng. Có thể hãm uống giải độc rượu .

Bài thuốc hoa cúc

Chữa ho, sốt, cảm mạo

Bài thuốc Tang cúc ẩm:

Cúc hoa vàng 6g

Lá dâu 6g

Liên kiều 4g

Bạc hà 4g

Cam thảo 4g

Cát cánh 4g

Nước 600ml

Sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.

Chữa cảm mạo, sốt nóng, ho, háo

Bài thuốc Tang cúc ẩm gia giảm:

Cúc hoa vàng 8g

Lá dâu 12g

Hạnh nhân 8g

Liên kiêu 6g

Cát cánh 8g

Bạc hà 4g

Cam thảo 4g

Đạm trúc diệp 4g

Sắc uống trong ngày .

Chữa hoa mắt, chóng mặt, mắt khô tròng

Bài thuốc Kỷ cúc, Địa hoàng hoàn

Kỷ tử 20g

Cúc hoa vàng 12g

Thục địa 32g

Đan bì 12g

Phục linh 12g

Sơn thù 16g

Trạch tả 12g

Hoài sơn 16g

Các dược liệu sấy khô, tán nhỏ luyện mật, viên bằng hạt ngô. Ngày uống 3 - 4 lần, mỗi lần uống 16 - 20 viên. Hoặc có thể sắc uống, lượng giảm bớt 1/6 mỗi vị.

Chữa hoa mắt, chóng mặt, mắt đỏ, mũi tắc:

Bài thuốc Cúc hoa trà điền tán . Cúc hoa vàng, Xuyên khung, Kinh giới, Bạc hà, Phòng phong, Khương hoạt, Hương phụ, Cam thảo, Bạch chỉ, Tế tân. Các vị bằng nhau. Trộn đều, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 - 6g sau bữa ăn, dùng nước trà chiêu thuốc.

Chữa cảm sốt

Cúc hoa vàng 5g

Địa liền 5g

Cúc tần 20g

Lá tre 20g

Bạc hà 20g

Kinh giới 20g

Cát căn 20g, dạng thuốc bột hoặc thuốc viên.

Mỗi ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 4 - 6g.

Chữa cảm, phong hàn, chủ yếu có cảm giác lạnh

Cúc hoa vàng 5g

Địa liền 5g

Bạc hà 20g

Kinh giới 20g

Tía tô 20g

Cát căn 20g

Sắc uống.

Chữa viêm, thoái hóa hoàng điểm

Thục địa, Hạt thảo quyết minh, mỗi vị 20g, Cúc hoa vàng, Thương truật, Chi tử, Hoàng cầm, Kỷ tử, Đại táo, Long nhãn, Viễn chí, mỗi vị 12g, xác Ve sầu 8g. Sắc uống trong 1 ngày. Mỗi tuần uống 5 thang. Thời gian điều trị từ 1 đến 2 tháng.

Cây mía, cây thực phẩm, cây thuốc


Cây mía ( Đông y gọi là Cam giá vì cam là ngọt, Cam giá là cái gậy có vị ngọt ) là cây công nghiệp nhiệt đới có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của ấn Độ. Mía ưa nắng nhiều, nhiệt độ cao, sợ rét, đòi hỏi nhiều nước trong suốt thời gian sinh trưởng. Tuy nhiên mía có tính thích nghi rộng, mía không những được trồng nhiều ở miền nhiệt đới mà còn được trồng tới 30o vĩ Bắc (tới tận bang Luiziama, Mỹ) và 30o vĩ Nam (Nam Phi, Achentina, Australia).
Chu kỳ sinh trưởng của mía là 1 năm, mía phát triển mạnh trong mùa mưa, thành thục trong mùa khô. Sau khi thu hoạch thân, từ gốc sẽ mọc lên cây con, nếu chăm sóc tốt mía lại cho năng suất cao như năm trước, sang năm thứ 3, 4 năng suất kém dần. Mía là cây có hiệu suất quang hợp cao nhất, có khả năng cho 50 - 150 tấn mía cây ( đã tước lá, phát ngọn ) trên 1 ha. Với năng suất 83 tấn mía cây/ha, thì 1ha mía cung cấp khoảng 8,3 tấn đường tinh, 2,5 tấn mật, 21 tấn bã mía, 21 tấn ngọn cho chăn nuôi, 40 tấn mía gốc và lá làm phân bón và rác ủ. Như vậy, 1 ha mía cho giá trị năng lượng bằng 20 ha đồng cỏ.

Ở nước ta từ lâu đời đã có giống mía địa phương như mía lau, mía de, mía bầu...Các giống này hàm lượng đường rất thấp nên trong thế kỷ 20 đã nhập và trồng rất nhiều giống có năng suất và hàm lượng đường cao như các giống của Indonesia, Trung Quốc, ấn Độ... Ngoài các giống chuyên trồng để làm đường, ở nước ta còn có các giống để ăn tươi và làm thuốc như mía Bầu, mía Đường chèo, mía Tím, mía Cò ke.

Trong thân cây mía có 8 - 18% đường, 0,22% protein, 0,5% chất béo, các chất khoáng: canxi, phot pho, sắt, kali, silit, mangane, manhezi..., một số vitamin, các chất men và một số hoạt chất khác. Trong mía có rất nhiều đường do đó trồng mía chủ yếu để làm đường (đường trắng, đường vàng, đường phên, đường phèn, đường phổi...) và còn dùng để làm mật, làm nước uống, làm thuốc, chế biến rượu, chế biến thực phẩm... ở một số vùng đã dùng cả cây mía còn ngọn và lá để thờ trong 3 ngày Tết (đặt bên cạnh bàn thờ, mỗi bên một cây). ở Trung Quốc còn tập tục tặng mía cho nhau ngày Tết với ý nghĩa năm nay tốt hơn năm trước. Thời Tam Quốc, Nguỵ Văn Đế Tào Phi ( con cả Tào Tháo ) rất thích ăn mía, thường vừa ăn mía vừa bàn việc nước với các đại thần, xong việc lại cầm cây mía làm gậy chống để về cung.

Theo Đông y, mía ngọt, ngon, tính mát, có tác dụng giải khát, tiêu phiền nhiệt bốc nóng, mát phổi, tiêu đờm, điều hoà tì vị, khỏi nôn oẹ, mửa khan, xốn xang trong bụng. Danh y Vương Thế Hùng đời Thanh, Trung Quốc viết: “Mía ngọt, mát, thanh nhiệt, điều hoà chức năng dạ dầy, nhuận tràng, giã ruợu, hạn chế giun đũa, ợ hơi, lợi hầu họng, mạnh gân cốt, trừ phong, dưỡng huyết, đại bổ âm tì”. Đông y thường dùng mía điều trị các chứng khô miệng lưỡi, thiếu tân dịch, táo bón, rối loạn tiêu hoá, nôn mửa, ợ hơi, khó tiểu tiện, sốt cao.

1. Chữa nôn mửa: Nước mía 7 chén + nước gừng 1 chén, nhấp dần. Chữa ăn vào nôn ra, hoặc sáng ăn chiều nôn, tối ăn sáng nôn ( Sách : Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam ).

2. Ho gà: Mía lau 3 lóng + rau má 1 nắm + gừng 2 lát . Dùng 2 chén nước sắc uống. Nên uống dần từng ít.

3. Ho vì hư nhiệt, miệng khô, sổ mũi: Nước mía nấu cháo với hạt kê, ăn vài ngày.

4. Đề phòng hậu sởi: Củ sắn dây 40g + rau mùi 20g + mía 2 đốt. Sắc với 2 chén nước còn 1 chén. Uống nhiều ngày trong khi có dịch sốt.

5. Táo bón do nhiệt kết ở đại tràng: Miệng thở ra có mùi hôi, bụng đầy, nước đái vàng, nóng, rêu lưỡi vàng mỏng. Vỏ cây đại 40g + phèn chua sống tán mịn 8g + nước mía 300ml. Vỏ cây đại cạo vỏ ngoài, sao, tán mịn, nước mía cô đặc. Trộn đều luyện viên 0,5g. Mỗi lần uống 4g lúc sáng sớm, trước khi đi ngủ. Khi thấy đi cầu được thì thôi .

6. Sốt rét lâu ngày thành báng - Phế lao: ăn mía ngọt nhiều ngày sẽ có hiệu quả. Cần kết hợp với nhiều cách chữa khác.


7. Viêm dạ dày mạn tính: Nước mía 1 cốc + nước gừng một ít, trộn đều, ngày uống 2 lần.

8. Sốt phiền khát: Mía, củ năn vừa đủ dùng, rửa sạch, thái vụn, sắc uống thay nước chè.


9. Ho do hư nhiệt: Mía vừa đủ dùng, cắt vụn, cho gạo dính vào nấu chè, ăn mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng, chiều, mỗi lần 1 bát.

10.Táo bón: Nước mía, mật ong mỗi thứ 1 cốc nhỏ, trộn đều uống lúc đói, ngày 2 lần vào buổi sáng, buổi chiều .

11.Buồn nôn do thai nghén: Nước mía 1 cốc, nước gừng tươi 1 thìa, ngày uống vài lần.

12.Trẻ em ra mồ hôi trộm: Ăn mía hoặc uống nước mía vài lần.

13.Khó tiểu tiện: Mía rửa sạch, thái vụn + râu ngô + sa tiền thảo, sắc uống ngày 2 lần sáng, chiều.

Mía là cây thực phẩm, cây thuốc rất quý, chúng ta nên nghiên cứu sử dụng tốt cây mía để phục vụ cuộc sống nhưng nên chú ý không nên dùng quá nhiều đường.

Chú ý: Các bài thuốc: 2; 3; 4; 5; 6; trích trong sách “Chữa bệnh bằng thức ăn thông thường” Các bài: 7; 8; 9; 10; 11; 12; 13: trích trong sách Trung Quốc “Những bài thuốc trị bệnh bằng trái cây”.

Cây chó đẻ răng cưa - Thuốc quý, rẻ tiền, dễ kiếm để chữa bệnh gan


Những cây thuốc chữa bệnh gan - mật, có tác dụng lợi gan, nhuận mật, giải độc gan, phục hồi chức năng gan như: Chó đẻ răng cưa, Nhân trần, quả Dành dành, Artichaut (ác-ti-sô)... Đó là những cây mọc hoang và được trồng ở nước ta. Chúng quý, rẻ tiền, dễ kiếm; đã cứu chữa nhiều người bệnh thoát khỏi lưỡi hái tử thần.

Dưới đây, xin giới thiệu về: cây Chó đẻ răng cưa

Tên khác: Cam kiềm, Rút đất, Điệp hoè thái, Lão nha châu, Diệp hạ châu, Trân châu thảo.

Ý nghĩa về tên

Chó đẻ răng cưa: Chó sau khi đẻ thường tìm ăn 1 số cây, trong đó có cây này. Lá mọc trên cành trông như răng cưa.

Rút đất: Cây này vào buổi chiều hoặc khi cắt khỏi gốc, lá cụp vào trông rất giống cây rau rút thả nổi trên ao.

Diệp hạ châu: là ngọc dưới lá vì hàng quả dưới lá khi có ánh sáng chiếu vào trông như hạt ngọc. Còn có hàm ý cây này qúy như ngọc. Đây là một trong hai đặc điểm giúp cho mọi người (kể cả người mù) nhận biết đúng sai về cây này và phân biệt 2 cây với nhau thông qua xúc giác (tay sờ) và vị giác (lưỡi nếm).

Tên khoa học

Diệp hạ châu ngọt: Phyllanthus urinaria L.

Diệp hạ châu đắng: Phyllanthus amarus Schum et Thonn. Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae)

Đặc điểm thực vật

Đặc điểm chung của hai loài Diệp hạ châu: Là cỏ sống hằng năm hoặc nhiều năm. Gốc hoá gỗ. Cây ưa sáng, ưa ẩm nhưng cũng chịu bóng, chịu hạn. Ra hoa kết quả từ tháng 2 đến tháng 12. Hoa quả từ phía dưới lá. Hoa rất nhỏ, cánh trắng, nhị vàng. Trên cây có hoa đực riêng, hoa cái riêng ở cùng một cành. Thân cây nhẵn. Cành mang lá trông rất giống một lá kép lông chim lẻ. Phiến lá nhỏ, thuôn dài, đầu nhọn hay hơi tù.

Đặc điểm riêng:

Điểm dễ nhận nhất: là mùi vị thân, lá. (Dùng lưỡi nếm sẽ nhận biết được dễ dàng). Ngay lúc cây mới phát triển, cao khoảng 10cm, có 4 cành mang lá đã cho phép ta nếm phân biệt vị đắng hoặc không có vị (gọi là ngọt).

Các đặc điểm khác: như màu thân, màu lá, thứ tự hoa đực, cái trên cành. Số cánh hoa. Màu sắc quả, số hạt mỗi quả: đều khác nhau.

Nơi mọc

Cả hai loại Diệp hạ châu ngọt và đắng đều mọc hoang khắp Bắc, Trung, Nam nước ta. Miền Trung du nhiều Diệp hạ châu ngọt; miền đồng bằng nhiều Diệp hạ châu đắng. Nhiều nơi cả hai loại mọc xen kẽ nhau trên cùng một mảnh đất.

Thường gặp Diệp hạ châu ở ven đường (nhất là đường sắt), bãi cỏ quanh nhà, chân tường, nơi ẩm mát.

Bộ phận dùng

Cắt cây phần trên mặt đất (chừa cành sát gốc để cây tái sinh). Sử dụng toàn cây.

Mùa thu hái

Từ tháng 4-12. Khi phơi dược liệu, hạt già sẽ tách ra khỏi quả, nên thu riêng, phơi khô làm giống

Tác dụng dược lý

Với viêm gan do vi rút B

-Năm 1988, Blumberg và Thio garajan đã dùng chế phẩm Diệp hạ châu đắng (Phyllanthus amarus) điều trị cho 37 bệnh nhân viêm gan do vi rút B. Kết quả sau 3 ngày, có 22 bệnh nhân đạt kết quả tốt (âm tính) và chứng minh Diệp hạ châu đắng có chất ức chế men polymeraza AND của vi rút viêm gan B.

- Năm 1977, một nhóm bác sĩ Việt Nam, khoa Tiêu hoá, Gan, Mật đã sử dụng bài thuốc gia truyền của L/y Trần Xuân Thiện gồm 3 vị là Diệp hạ châu đắng, Xuyên tâm liên, quả Dành dành để điều trị cho những người có kết quả xét nghiệm HBsAg (+). Sau một thời gian điều trị, kết quả xét nghiệm âm tính được coi là khỏi. Tỷ lệ đạt 26/98 bệnh nhân. Ngoài ra, thuốc còn giúp cơ thể người dùng - sản xuất kháng thể chống HBsAg (59/98 người). Liều điều trị trung bình 4-5 tháng.

- Năm 2002, Nguyễn Bá Kinh và cộng sự đã công bố kết quả nghiên cứu lâm sàng tại Bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội), đã sử dụng chế phẩm LIV/94 (Chó đẻ răng cưa là một trong 3 thành phần của thuốc) điều trị cho các bệnh nhân viêm gan mãn tính trong 2 năm (2001-2002) đạt kết quả tốt. Thuốc có tác dụng làm giảm và sạch HBsAg của bênh nhân.

Với xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối:

Bệnh nhân Hoàng Ngọc C, 29 tuổi, vào điều trị tại Khoa Nội - Tiêu hoá của bệnh viện. Sau khi xét nghiệm, kết luận: xơ gan cổ trướng thời kỳ cuối, bệnh viện không có khả năng điều trị, đã khuyên người nhà đưa bệnh nhân về lo “hậu sự”. ở nhà, gia đình đã cho điều trị bằng thuốc Bắc, nhưng bệnh càng xấu đi. Người bệnh không ăn được, khó thở do bụng trướng, tĩnh mạch cổ nổi to, xuất hiện tuần hoàn băng trệ. Bệnh nhân luôn phải ngồi theo tư thế Fowler do ngẹt thở. Nhờ có người mách dùng Diệp hạ châu đắng sao vàng 100g (khoảng 400g tươi) sắc cho bệnh nhân uống trong ngày, sau 7 ngày dùng thuốc, các triệu chứng nói trên thuyên giảm. Bệnh nhân bụng mềm, tĩnh mạch cổ nhỏ lại, ăn ngủ tốt. Tiếp tục dùng thuốc theo liều như trên thêm 221 ngày nữa thi khỏi hẳn.

Một số bài thuốc

Chữa viêm gan do virus: Diệp hạ châu đắng sao khô 20g, sắc nước 3 lần. Trộn chung các nước sắc. Thêm 50g đường, đun sôi cho tan đường. Chia làm 4 lần uống trong ngày. Khi kết quả xét nghiệm HBsAg (-) thì ngừng thuốc.

Chữa sơ gan cổ trướng thể năng: Diệp hạ châu đắng sao khô 100g sắc nước 3 lần. Trộn chung nước sắc, thêm 150g đường, đun sôi cho tan đường, chia nhiều lần uống trong ngày (thuốc rất đắng), liệu trình 30-40 ngày. Khẩu phần hàng ngày phải hạn chế muối, tăng đạm (thịt, cá, trứng, đậu phụ).

Chữa suy gan (do sốt rét, sán lá, lỵ amib, ứ mật, nhiểm độc).

Diệp hạ châu (ngọt hay đắng) sao khô 20g.

Cam thảo đất sao khô 20g

Sắc nước uống hàng ngày.

Tránh nhầm lẫn: Cây thuốc có tên Chó đẻ còn có cây Chó đẻ hoa vàng là cây Hy thiêm (Siegesbeckia Orientalis- Thuộc họ Cúc).

Một trường hợp đáng tiếc: Cuối tháng 01/2002 vừa qua, người nhà một bệnh nhân xơ gan cổ trướng, bệnh viện trả về, đến hỏi tôi thuốc chữa. Tôi đã cho xem

cây Diệp hạ châu đắng trồng trong chậu và cắt 1 cành cho về làm mẫu, rồi hướng dẫn liều lượng, cách dùng. Sau đó cả nhà người bệnh đổ đi tìm cây thuốc và đặt mua ở hàng thuốc Nam.

Nhưng tiếc rằng thời gian này, cây Diệp hạ châu mọc hoang đã tàn lụi hết nên không sao mua đủ lượng thuốc cần dùng. 40 ngày sau, bệnh nhân chết. Chuyện này nhắc nhở chúng ta cần quan tâm trồng cây Diệp hạ châu đắng làm thuốc cứu người mắc bệnh gan.

Tuesday, August 21, 2012

Vị thuốc độc đáo Hoa Mào gà đỏ trong Y học cổ truyền phương Đông



Mào gà đỏ có tên khoa học là Celosia cristata L. Dân gian gọi bằng nhiều tên như Kê quan hoa, Kê công hoa, Kê cốt tử hoa, Mồng gà, Lão lai thiểu…, là một loại cỏ sống lâu năm, cao từ 30 - 90cm hoặc hơn.
Thân màu đỏ, mọc đứng, có cành nhẵn. Lá mọc so le, có cuống, phiến lá nguyên, hình trứng, đầu nhọn, phía gốc to rộng hơn, màu xanh nhạt, gân lá đỏ, mép nguyên. Gọi là hoa Mào gà đỏ nhưng thực ra còn có loại mang màu hồng nhạt, vàng hoặc trắng, cuống hoa rất ngắn, cụm hoa xoè ra thành hình quạt hoặc hình vại, mép loe, nhăn nheo. Quả hộp, hình trứng hay hình cầu, hạt nhỏ đen bóng.

Theo Y học cổ truyền, hoa Mào gà đỏ vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt trừ thấp, lương huyết, chỉ huyết, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như xích bạch lỵ (bệnh lỵ trực khuẩn hoặc amip), trĩ lậu hạ huyết (trĩ xuất huyết), thổ huyết (nôn ra máu), khạc huyết (ho ra máu), tỵ nục (chảy máu mũi), huyết lâm (đái buốt và ra máu), băng lậu (rong huyết, rong kinh, băng huyết), đới hạ (khí hư), di tinh, đái dưỡng trấp… Cách dùng như sau:

Cao huyết áp: Kê quan hoa 3 - 4 cái, Hồng táo 10 quả, sắc uống hàng ngày.

Thổ huyết: Kê quan hoa sao giấm tán vụn, uống mỗi lần 6g, mỗi ngày 2 lần với nước ấm hoặc Kê quan hoa (dùng cả cây) lượng vừa đủ, sắc uống, hoặc Hoa mào gà trắng sao giấm tán vụn, uống mỗi lần 6g với một chút rượu, hoặc Hoa mào gà trắng tươi 15 - 24g (loại khô dùng 6 - 15g) hầm với phổi lợn lượng vừa đủ trong 1 giờ rồi chia ăn vài ba lần trong ngày.

Khạc huyết: Hoa mào gà trắng 30g, Trắc bá diệp 30g, Cỏ nhọ nồi 30g, sắc uống, hoặc Hoa mào gà tươi 24g, rễ Cỏ tranh tươi 30g, sắc uống, hoặc Hoa mào gà trắng tươi 15 - 24g (loại khô dùng 6 - 15g) hầm với phổi lợn ăn.

Xích bạch lỵ: Dùng Hoa mào gà sắc với rượu uống. Xích lỵ (phân có máu) dùng hoa màu đỏ. Bạch lỵ (phân chỉ có nhày) dùng hoa màu trắng.

Thoát giang hạ huyết (lòi dom chảy máu): Kê quan hoa và Phòng phong lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, vê thành viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 70 viên với nước cơm khi bụng đói, hoặc Hoa mào gà trắng sao 30g, Tông lư thán 30g, Khương hoạt 30g, tán thành bột, uống mỗi lần 6g với nước cơm.

Tỵ nục: Hoa mào gà trắng tươi 30g, Trắc bá diệp 30g, Cỏ nhọ nồi 30g, sắc uống, hoặc Hoa mào gà dùng cả cây 30g, sắc uống, hoặc Hoa mào gà 30g, Hải đới 60g sắc uống, hoặc Hoa mào gà 9g, thịt lợn nạc 250g, hai thứ hầm nhừ chia ăn vài lần.

Thanh quang nhãn (glaucoma): Hoa mào gà 15g, rễ Ngải cứu 15g, Mẫu kinh căn (Vitex negundo L.) 15g, sắc uống.

Huyết lâm: Hoa mào gà trắng đốt tồn tính, mỗi ngày uống 15 - 20g với nước cơm hoặc dùng Hoa mào gà 15g sắc uống.

Di tinh: Hoa mào gà trắng 30g, Kim ti thảo (Melica scabrosa Trin) 15g, Kim anh tử 15g, sắc uống.

Lỵ tật: Hoa mào gà tươi 30 - 60g, sắc uống, hoặc Hoa mào gà tươi 30 - 60g (loại khô dùng 15g), Phượng vĩ thảo tươi 30 - 60g (loại khô dùng 15g), sắc uống, hoặc Hoa mào gà trắng 15g, Tần căn bì 15g, sắc uống.

Đại tiện ra máu: Hoa mào gà sao cháy tán bột, uống mỗi lần 6 - 9g, mỗi ngày uống 2 - 3 lần, hoặc Hoa mào gà trắng 15g, Phòng phong 6g, Tông lư thán 10g, sắc uống, hoặc Hoa mào gà 30g, Ngải diệp 30g sao đen, sắc uống.

Nhọt độc vùng gáy: (cảnh thư): Hoa mào gà tươi, Nhất điểm hồng tươi (Begonia wilsonii Gagn) và Liên tử thảo tươi lượng bằng nhau, rửa sạch giã nát, chế thêm một chút đường đỏ rồi đắp vào tổn thương.

Trĩ lở loét: Hoa mào gà 3g, Ngũ bội tử 3g, một chút Băng phiến, tất cả tán bột, trộn với mật lợn rồi bôi lên vùng loét.

Bế kinh: Hoa mào gà tươi 24g hầm với 60g thịt lợn nạc, chia vài lần ăn trong ngày.

Kinh nguyệt quá nhiều (đa kinh): Hoa mào gà lượng vừa đủ, sấy khô tán bột, uống mỗi lần 6g khi bụng đói với một chút rượu, hoặc Hoa mào gà sao cháy tán bột uống mỗi lần 6 - 9 g với nước ấm, hoặc Hoa mào gà trắng sấy khô tán bột, uống mỗi ngày 2 lần mỗi lần 6g với một chút rượu vang hoặc nước ấm.

Kinh nguyệt không đều: Hoa mào gà đỏ và trắng mỗi loại 9g sắc uống, hoặc Hoa mào gà trắng 15g, Long nhãn hoa 12g, ích mẫu thảo 9g, thịt lợn nạc vừa đủ, hầm ăn, nếu có kèm theo khí hư thì gia thêm vỏ trắng rễ Tần bì 9g.

Khí hư:

Bài 1: Bạch đới (khí hư màu trắng) dùng Hoa mào gà trắng, xích đới (khí hư có màu đỏ) dùng Hoa mào gà đỏ, sấy khô tán bột, mỗi ngày uống 9g vào sáng sớm khi bụng đói.

Bài 2: Hoa mào gà trắng 15g, Bạch truật 9g, Bạch linh 9g, Bông mã đề tươi 30g, Trứng gà 2 quả, sắc uống.

Bài 3: Hoa mào gà trắng 15g, Hải phiêu tiêu 9g, sắc uống.

Bài 4: Hoa mào gà tươi (bách đới dùng loại trắng, xích đới dùng loại đỏ) 60g, Sơn hồng căn 60g, sắc uống.

Bài 5: Kê quan hoa, Lệ chi, Long nhãn, Biển súc, Hồng táo lượng vừa đủ hầm với thịt lợn nạc ăn.

Bài 6: Kê quan hoa sao đen, tán bột, uống mỗi lần 6 - 9g, ngày 2 lần.

Bài 7: Hoa mào gà trắng 30g, Gà ác 1 con. Làm thịt gà bỏ phủ tạng, cho Hoa mào gà vào túi vải đặt trong bụng gà rồi đem hầm chín ăn.

Bài 8: Hoa mào gà trắng 21g, Kim anh tử nhục 15g, Bạch quả bỏ hạt 10 quả, sắc uống, hoặc Hoa mào gà trắng 9g, Long nha thảo 9g, Đại kế căn 9g, sắc uống.

Bài 9: Hoa mào gà 18g, Bạch truật 30g sắc uống, hoặc Hoa mào gà trắng 30g, Rau sam 30g sắc uống.

Bài 10: Hoa mào gà trắng 60g, Lộc giác sương 30g, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 6g với một chút rượu, hoặc Kê quan hoa 15g, Bồ hoàng sao 6g, sắc uống.

Thai lậu: (có thai không đau bụng mà thỉnh thoảng ra máu):

Hoa mào gà trắng sao cháy, Long nhãn 10g, sắc nửa rượu nửa nước uống.

Băng lậu:

Bài 1: Hoa mào gà khô 24g sắc uống.

Bài 2: Hoa mào gà trắng 15g, Phòng phong 6g, Tông lư thán 10g, sắc uống.

Bài 3: Kê quan hoa 15g, Hải phiêu tiêu 12g, Bạch biển đậu hoa 6g, sắc uống.

Bài 4: Kê quan hoa sao 30g, đường đỏ 30g, hãm uống thay trà hàng ngày.

Bài 5: Kê quan hoa sao cháy tồn tính mỗi ngày uống 9 - 12g với nước sôi để nguội hoặc rượu vang.

Bài 6: Kê quan hoa sao giấm 12g, Ngải cứu thán 4,5g, sắc đặc, pha thêm một chút đường đỏ uống.

Bài 7: Kê quan hoa và Trắc bá diệp lượng bằng nhau, sao cháy tồn tính, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.

Đau bụng sau đẻ:

Hoa mào gà trắng 30g sắc với rượu vàng uống.

Mày đay:

Kê quan hoa dùng cả cây sắc uống và ngâm rửa, nếu nốt sẩn màu đỏ thì dùng hoa màu đỏ, nếu sắc trắng thì dùng hoa màu trắng, hoặc Kê quan hoa cả cây và Thương nhĩ thảo lượng vừa đủ, sắc lấy nước ngâm rửa.

Kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm cho thấy, dịch sắc Kê quan hoa có tác dụng tiêu diệt trùng roi âm đạo (chỉ sau 5 - 10 phút tiếp xúc với dịch thuốc). Kê quan hoa còn có khả năng nâng cao sức chịu đựng của tế bào cơ tim trong điều kiện thiếu ôxy, làm hạ huyết áp, giảm nhịp tim, từ đó làm giảm lượng ôxy tiêu hao của cơ tim.

Cây bò mắm - kháng sinh quý trong các bệnh đường hô hấp



Cây Bò mắm có tên khoa học: Pouzolzia zeylanica (L) Benn. (Pouzolzia indica Gaud). Thuộc họ Gai (Urticaceae). Tên nhân dân thường gọi là cây Thuốc dòi.
Bò mắm là loại cây thảo, sống nhiều năm, thân có lông, cành mềm. Lá mọc so le, có khi mọc đối, gân toả từ gốc, có lông cả hai mặt. Hoa màu trắng, ra hoa vào tháng 7, không có cuống, mọc thành xim co ở kẽ lá. Quả hình trứng nhọn, màu hồng tím, có lông. Cây mọc hoang khắp mọi nơi, mọc nhiều ở hàng rào. Nhân dân thường thu hái cây, lá, bông Bò mắm về dùng tươi hay phơi, sấy khô.

Theo Đông y: Cây Bò mắm (Thuốc dòi) có vị ngọt, nhạt, tính mát, có tác dụng chỉ khái, tiêu đờm, dùng chữa ho lâu ngày, ho dai dẳng, ho sơ nhiễm lao, ho lao, viêm họng, viêm thanh phế quản, ho khan, còn dùng chữa tiêu viêm. Liều dùng ngày 10 - 20g sắc nước uống chữa các bệnh về hô hấp (phổi - lao phổi - viêm đường hô hấp trên - Khí phế quản - thanh quản - viêm họng…) hoặc thu hái nhiều về nấu thành Cao bò mắm.

Bò mắm giã nát đắp chữa đinh nhọt, viêm mũi, viêm sưng vú, vết bầm tụ máu…

Thật quý với các chị em chuyên việc muối cá, tôm, làm nước mắm… khi thấy có dòi, họ tìm ngay cây Bò mắm giã nhỏ bỏ vào thạp muối mắm, tôm đậy nắp kín… Sau 2 - 3 ngày, tháo nắp, dòi sẽ hết… Có lẽ từ kinh nghiệm dân gian ấy mà cây Bò mắm có tên cây Thuốc dòi. Qua kinh nghiệm trong dân gian, chúng ta nên mạnh dạn thu hái cây Bò mắm hoặc nghiên cứu trồng đại trà cây Bò mắm để có thể đưa vào chế biến theo công nghệ Dược hợp lý, an toàn cho bệnh nhân, có thuốc điều trị các bệnh về phổi, lao phổi về đường hô hấp.

Tuesday, July 17, 2012

Chuồn chuồn làm thuốc


rong y học cổ truyền, có hai loại chuồn chuồn được dùng để làm thuốc: Loại thứ nhất, còn gọi là Thanh đình, Thanh linh…, tên khoa học là Anax parthenope, vị ngọt, tính hơi lạnh, có công dụng bổ thận ích tinh, thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, chỉ khái định suyễn, thường được dùng để chữa liệt dương, di tinh, hầu họng sưng đau, hen suyễn, ho gà…
Trong Lĩnh Nam bản thảo, Hải Thượng Lãn Ông viết :
“Thanh linh ta vẫn gọi chuồn chuồn
Vốn thực loài sâu sinh ở nước,
Không độc, hơi lạnh, mạnh chân dương.
Sáp tinh, ấm thuỷ, thông lợi được”
 Xích thanh linh (Crocothemis Servillia)
Một số cách dùng Thanh linh chữa bệnh cụ thể như sau:
Liệt dương, di tinh: chuồn chuồn 4 con, sấy khô, tán bột, chia uống 2 lần sáng chiều với nước ấm.
Ho gà: chuồn chuồn 2 - 3 con, sấy khô tán bột uống.
Hen suyễn do thận hư: chuồn chuồn 10 con, tắc kè 1 đôi, đường phèn 10g, tất cả sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g.
Hầu họng sưng đau: chuồn chuồn 4 con sấy khô tán bột uống với nước sắc 30g ô mai hoặc nước sắc 30g huyền sâm và 10g cát cánh.
Loại thứ hai, chuồn chuồn đỏ, còn gọi là Xích thanh linh, tên khoa học là Crocothemis servillia (Drury), vị ngọt, tính hơi lạnh, có công dụng bổ thận ích tinh, trấn thống bổ huyết, nhuận phế chỉ khái, được dùng để chữa đau đầu do thiếu máu, chóng mặt, ho gà, liệt dương, di tinh, hầu họng sưng đau…
 Thanh linh (Anax parthenope)
Ví dụ như:
Đau đầu, chóng mặt do thiếu máu: chuồn chuồn đỏ 3 con, sấy khô trên viên ngói nóng, tán bột, chia uống 3 lần trong ngày.
Ho gà: chuồn chuồn đỏ 5 con, xuyên bối mẫu 5g, hai thứ sấy khô tán bột, chia uống 2 lần trong nagỳ với một chút mật ong.
Liệt dương: chuồn chuồn đỏ 5 con, tiên linh tỳ 30g, toả dương 20g, ba kích 20g, nhục thung dung 15g, sơn thù 6g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
-Di niệu (đái dầm và đái són): chuồn chuồn đỏ 3 con, tang phiêu tiêu 10g, kim anh tử 15g, phúc bồn tử 10g, thỏ ty tử 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.       
  Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn