Thursday, April 12, 2012

Cây óc chó – vị thuốc quý



Theo đông y, rễ của cây óc chó đồng bằng có vị ngọt hơi đắng, tính bình, tác dụng khử phong thấp, mạnh gân cốt, tiêu thũng…
Theo đông y, rễ của cây óc chó đồng bằng có vị ngọt hơi đắng, tính bình, tác dụng khử phong thấp, mạnh gân cốt, tiêu thũng…
Cay oc cho vi thuoc quy
Tùy từng địa phương mà cây óc chó cũng có những tên gọi khác nhau như cây sung dại (miền Bắc) hay ổi dại (miền Nam), vì quả của nó nhỏ bằng trái trứng cá, hình giống quả ổi nhỏ mới mọc, nhưng bên trong ruột mềm, chứa những hạt như ruột quả sung.
Lá của nó có ba loại khác nhau mọc trên cùng một cành, nếu tính theo chiều dài một gang tay đo từ trên ngọn xuống (khoảng 20cm) gọi là đọt, cùng một đọt này có tới 3 loại lá đó là: trên cùng là lá ổi, lá giữa to hơn chia 2 phần nửa bên hình lá ổi, nửa bên hình lá đu đủ, còn lá dưới to hơn nữa là lá đu đủ nhỏ. Song cũng tùy loại cây óc chó mà có tên khác như vú chó hay vú bò (ở đồng bằng) hay cây hồ đào (ở vùng rừng). Chúng đều là những loại cây mọc hoang ở bờ ruộng bờ nương, rẫy, nơi ven rừng…
Như vậy óc chó cũng có hai loại đó là cây vú chó, vú bò, mọc thành những bụi nhỏ ở vùng đồng bằng nơi ven rừng, bờ ruộng rẫy ở quanh làng, có tên khoa học là Ficus hirta Vahl. Còn cây mọc trong rừng có tên khác là cây hồ đào với tên khoa học Juglans regiaL.
Theo đông y, rễ của cây óc chó đồng bằng (Ficus hirta Vahl, còn gọi là vú chó hay vú bò) có vị ngọt hơi đắng, tính bình, tác dụng khử phong thấp, mạnh gân cốt, khử ứ tắc, tiêu thũng, sinh tân. Ngay từ xa xưa danh y Tuệ Tĩnh đã đã biết sử dụng nhựa mủ trắng của cây óc chó pha trộn cùng nghệ vàng làm hoàn để trị chứng bụng trướng đầy, đại tiện táo kết. Lá hay quả cây óc chó giã nát đắp chữa vết thương bầm tím…
Cây óc chó loại to mọc ở rừng có vị ngọt hơi chát, tính ấm, đi vào hai kinh phế, thận, để bổ dưỡng gan thận, làm mạnh lưng gối, thu liễm phổi, hạ suyễn, cố thận, sáp tinh. Công dụng làm thuốc bồi dưỡng cơ thể, trừ ho đờm, lao lực quá độ sinh ho, hen suyễn, lưng đau mỏi gối, chân yếu, làm thuốc dưỡng da, đen tóc, lợi tiểu, trừ trĩ. Lá óc chó còn sử dụng làm thuốc mỹ phẩm cho da, làm săn da, sát khuẩn, khử lọc máu. Dầu óc chó dùng chữa phòng lở chàm và nhuộm đen tóc. Cũng có tài liệu đông y nói rằng nhân óc chó còn gọi là hồ đào nhục, có vị ngọt, tính bình hơi ấm, tác dụng bổ phế, thận, làm mạnh sức, béo người, đen tóc, trơn da, chữa các chứng tiết tinh, ho lâu, gối lưng đau mỏi…
Cay oc cho vi thuoc quy
Cây óc chó cũng có tác dụng chữa bệnh hở van tim và ngừa nhồi máu cơ tim. Chuyện kể rằng cố bác sỹ Lương Hoàng Phấn học được ở Tây Tạng từ vị Sư Lạt Ma và ông đã hướng dẫn dùng 9 đọt cây óc chó, cho ½ ly nước rồi giã vắt lấy nước cốt. Lấy cùng 1 bó hẹ tươi chừng 1 nắm tay, cũng cho ½ ly nước giã vắt lấy nước để riêng. Hai ly này đem phơi sương trong đêm, cho đến 12 giờ đêm mang vào và uống riêng từng ly một, mỗi lần uống từng ly này cách nhau 30 phút (uống ly nào trước cũng đều được). Mỗi tuần uống hai đêm liền, nhưng sang tới tuần thứ hai cũng uống liên tiếp hai ngày liền trùng vào hai ngày tuần trước đã uống (bài thuốc đã chữa thành công một bà già 60 tuổi bị hở van tim nặng tại Nam bộ sau 4 lần uống). Sau đây xin giới thiệu vài phương thuốc chữa trị từ cây óc chó để tham khảo và có thể áp dụng.
- Chữa vết thương đau nhức: Dùng nhân hạt óc chó giã nhỏ hòa với rượu uống, kết hợp lấy lá óc chó tươi hay vỏ quả giã nát đắp rịt bên ngoài vết thương.
- Chữa người già hen suyễn, đái ra cát sỏi: Giã hạt óc chó nấu cháo thường ăn sẽ khỏi.
- Chữa bỏng, lở chàm, nhuộm đen tóc: Lấy dầu óc chó bôi ngoài, hay chải tóc.
- Chữa thận lạnh, đau buốt ngang lưng, rũ mỏi, liệt dương, đái són, đái nhiều, vãi đái, tiết tinh: Nhân hạt óc chó (hồ đào nhục) 12g, ba kích 10g, nhân quả rể (ích trí nhân) 8g, ô dược 8g, cẩu tích 8g, sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần.

Wednesday, April 11, 2012

CHỮA BỆNH VỚI CHUỐI HỘT



Chuối hột vị ngọt chát, tính mát, có tác dụng giải độc, làm mát máu, lợi tiểu, giúp tiêu hóa nhanh, sát trùng. Nó thường được dùng chữa đau bụng, kém ăn, sỏi đường tiết niệu.

Các bài thuốc có chuối hột:
- Chữa đái rắt: Chuối hột 3 quả, râu ngô 10 g, rau má 15 g, lá dấp cá 8 g; sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần, mỗi lần 50-60 ml. Uống 2-3 ngày liền.
- Chữa sỏi thận: Chuối hột 12 quả (thái lát mỏng, sao vàng, hạ thổ trong 8 giờ). Kim tiền thảo 30 g, rễ cỏ tranh 60 g, bông mã đề 30 g.
Thang thuốc chia làm 4 phần, mỗi ngày dùng 1 phần sắc uống 4-5 lần, mỗi lần 50-60 ml. Dùng trong 4 ngày liền.

- Chữa tiêu chảy: Chuối hột tước vỏ, rửa sạch, thái lát dùng ăn sống.
- Chữa hắc lào: Chuối thái mỏng xát lên chỗ bị hắc lào 1-2 lần/ngày, trong 5-7 ngày.

Trong Y học cổ truyền, chuối hột là một cây thuốc quen thuộc, hầu như tất cả các bộ phận của cây chuối hột đều được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Quả chuối hột xanh được dùng chữa hắc lào: Lấy quả xanh còn ở trên cây, cắt đôi, hứng lấy nhựa, bôi hàng ngày vào chỗ hắc lào. Quả chuối hột còn non, thái mỏng, trộn với rau sống ăn với sứa, với gỏi cá giảm độ tanh và đề phòng tiêu chảy.
Vỏ quả chuối hột: Phối hợp với một số vị thuốc khác có thể chữa đau bụng kinh, kiết lỵ.
Để chữa đau bụng kinh, lấy 40g vỏ quả chuối hột, phơi khô, sao hơi vàng, tán bột. Quế chi 4g, cam thảo 2g, tán bột. Trộn đều hai loại bột, luyện với mật làm viên, uống 2 -3 lần trong ngày với nước ấm.
Để chữa kiết lỵ, lấy 20g vỏ quả chuối hột, 20g rễ gai tầm xoong, 20g vỏ quả lựu, 20g rễ tầm xuân, 10g búp ổi, phơi khô, thái nhỏ, sắc lấy nước uống.
Củ chuối hột: Được dùng làm thuốc chữa cảm nắng, sốt cao, kiết lỵ ra máu và chống sảy thai.
Lấy củ chuối hột rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống có thể chữa được cảm nắng, sốt cao, mê sảng.
Dùng củ chuối hột kết hợp với củ sả, tầm gửi cây táo hoặc vỏ cây tá mỗi thứ 4g, thái nhỏ, sao vàng, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống cả một lần trong ngày để chữa kiết lỵ ra máu.
Lấy củ chuối hột 12g, tầm gửi cây dây (tang ký sinh) 12g, rễ cỏ tranh 12g, thài lài tía 12g, sắc uống chữa ho ra máu.
Hoặc lấy củ chuối hột, củ chuối rừng, rễ cây móc, mỗi thứ 15g thái nhỏ, sao vàng, sắc làm thuốc chống sảy thai.

Thân non cây chuối hột: Cắt đoạn, nướng chín, ép lấy nước, thêm ít nước, ngậm chữa đau răng.
Lá chuối hột: Phơi khô (10g), mốc cây cau (20g), tinh tre (20g). Tất cả đốt tồn tính, tán nhỏ, sắc uống chữa băng huyết, nôn ra máu.

Theo kinh nghiệm dân gian thì cây chuôi hột là cây có nhiều công dụng từ trái, lá, thân, rể. Đặc biệt lá chuối hột là loại lá duy nhất dùng để gói bánh (bánh ích, bánh tét, bánh chưng…). Trái chuối hột trị được nhiều bệnh khá hiệu quả, mà ít tốn tiền, không độc hại. Cây chuối hột tên khoa học là Musra barjoo sieb, họ Musaceae, có nơi gọi là chuối chát. Là cây mọc hoang, hiện được trồng nhiều để lấy lá gói bánh và trái để ăn ( dù hột rất nhiều ).Trái chuối hột có hình tròn dài, lúc chín có màu vàng, vị ngọt, có nhiều hột đen. Trái chuối hột một “thần dược”, được chế biến ngâm thành “rượu chuôi hột” dùng rất tốt.

Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc” (Nhà xuất bản Y học-1963) thì lá và vỏ quả chuối hột khô sắc uống làm thuốc lợi tiểu và chữa được chứng phù thũng sưng chân (cước khí). Rễ sắc uống chữa cảm mạo, bệnh dạ dày, đau bụng, chữa cả chứng tiêu khát và bệnh lâm lậu. Theo kinh nghiệm dân gian người ta dùng chuối hột trị được nhiều bệnh khá hiệu quả, mà lại không tốn tiền, không độc hại. Ngoài việc dùng nước sắc quả chuối hột chữa bệnh đái rát; lá và vỏ quả chuối khô làm thuốc lợi tiểu chữa phù thũng (sắc uống) nhưng hay dùng nhất là để điều trị các bệnh Sỏi thận, chữa bệnh đái tháo đường, bệnh hắc lào, trị táo bón, chữa cảm nóng sốt cao,…

Cụ thể :

Chữa sỏi thận: Lựa quả chuối hột thật chín, lấy hột phơi khô, tán nhỏ nấu lấy nước uống; cho 7 thìa nhỏ (thìa cà phê) bột hột chuối vào 2 lít nước, đun nhỏ lửa khi còn 2/3 nước là được. Uống hàng ngày như nước trà, uống liền 2-3 tháng cho kết quả khá tốt.

Chữa bệnh đái tháo đường: Đào lấy củ cây chuối hột, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống, dùng thường xuyên và lâu dài có tác dụng ổn định đường huyết. Vì củ chuối không nhiều và đào củ phức tạp, có thầy thuốc (ở Trung Quốc) đã nghiên cứu cải tiến: cắt ngang cây chuối hột, khoét một lỗ, đậy nilon lên, để nước cây chuối tiết ra đọng vào đó. Lấy nước này cho người bệnh uống. Khi đoạn trên héo thì cắt thấp xuống phía dưới; một cây cắt ngang như thế dùng được nhiều lần. Mùa mưa nước chuối loãng thì uống nhiều hơn mùa nắng. Điều trị theo cách này bệnh cũng thuyên giảm rõ rệt. Hoặc cây chuối có bắp đang nhú, cắt ngang gốc (cách mặt đất khoảng 20cm) lấy dao khoét một lỗ rỗng to ở thân chuối, để một đêm, sáng hôm sau múc nước từ lỗ rỗng (do thân chuối tiết ra) mà uống.

Ngoài ra, quả chuối hột còn xanh được dùng điều trị bệnh hắc lào (cắt đôi, xát trực tiếp vào nơi tổn thương), dùng liên tục 7-8 ngày là khỏi. Với trẻ táo bón, người ta lấy 1-2 quả chuối chín đem vùi vào bếp lửa cho vỏ quả ngả màu đen chín nhũn, lấy ra để nguội cho trẻ ăn, khoảng 10 phút sau là đi tiêu được. Chữa cảm nóng sốt cao phát cuồng: đào lấy củ chuối hột rửa sạch, giã nát, vắt lấy 1 bát nước cho uống sẽ giảm sốt và không nói mê./.

Bài thuốc từ rau càng cua

Rau càng cua là loại rau hoang dại, mọc nhiều nơi, ăn sống hơi chua giòn ngon, rất có giá trị về dinh dưỡng. Theo Đông y, rau có tác dụng bổ âm, dưỡng huyết, thanh nhiệt, giải độc, thông ứ, chỉ thống, lợi tiểu tiện.

Rau càng cua

Đặc điểm của rau càng cua:
Càng cua tên khoa họcPeperomia peliucida, ưa mọc nơi đất ẩm, mương rạch, vách tường khắp nơi ở nước ta, cao khoảng 20 – 40cm. Càng cua thường được người dân hái làm rau tươi bóp giấm, đặc biệt món rau ăn sống với ếch chiên, thịt bò xào tái, lươn om, ăn ngon lạ miệng, bổ mát… Trong 100g rau càng cua chứa 92% nước, phosphor 34mg, kali 277mg, canxi 224mg, magiê 62mg, sắt 3,2mg carotenoid 4.166 UI, vitamin C 5,2mg, cung cấp cho cơ thể 24 calori.
Rau càng cua chứa nhiều chất vitamin C, carotenoid, là chất có vai trò tăng khả năng miễn dịch, phòng ngừa bệnh xơ vữa động mạch, bệnh về mắt, tăng cường sức mạnh cơ bắp, mau lành vết thương, giải nhiệt độc cơ thể… Đây là rau chứa nhiều chất phosphor, canxi là chất có vai trò quan trọng giúp trẻ em phát triển bộ xương, ngăn ngừa còi xương và chữa loãng xương người lớn. Rau chứa nhiều chất sắt, ăn rất tốt cho người thiếu máu do thiếu sắt. Rau còn chứa nhiều kali là chất rất cần cho sự hoạt động bình thường của cơ tim, sử dụng rất tốt cho bệnh tim mạch và huyết áp. Ngoài ra, càng cua giàu chất magiê cũng là chất có vai trò chữa bệnh đái tháo đường, táo bón, cao huyết áp, và loãng xương. Càng cua là loại rau ít năng lượng, rất thích hợp cho người thừa cân nóng nhiệt.
Theo Đông y, rau càng cua có tác dụng bổ âm huyết, thanh nhiệt, giải độc, thông ứ, chỉ thống, lợi tiểu tiện, là món ăn bài thuốc rất thích hợp chữa trị chứng phế nhiệt miệng khô khát, chứng huyết nhiệt sinh mụn nhọt lở ngứa, chứng vị nhiệt sinh táo bón, chứng thận hư âm hư, bàng quang nhiệt tiểu buốt gắt, và chữa chứng đau mỏi cơ khớp do phong nhiệt.

Một số món ăn bài thuốc dùng rau càng cua
- Chữa phế nhiệt, viêm họng khô cổ khan tiếng: rau càng cua rửa sạch nhai ngậm, hoặc xay nước uống ngày 50 – 100g.
- Chữa chứng tiêu khát (đái tháo đường) có kèm chứng miệng khô khát, táo bón: rau càng cua rửa sạch 100g bóp giấm, chanh, thịt ếch chiên bột 100g ăn tuần vài lần.
- Chữa thiếu máu: rau càng cua 100g rửa sạch bóp giấm, thịt bò, cho gia vị vừa đủ xào chín tới trộn đều ăn vài lần.
- Chữa tiểu gắt, tiểu khó: rau càng cua ăn sống hoặc nấu nước uống ngày 150 – 200g.
- Chữa đau lưng cơ co rút (nhiệt độc nhập kinh thận): rau càng cua sắc uống mỗi ngày 50 – 100g.
- Chữa nhiễm trùng đầu ngón tay (chín mé): rau càng cua 100 – 150g sắc uống trong, bã đắp ngoài.
- Chữa ngoài da khô sần, mụn nhọt lở ngứa, vết thương lâu lành: rau càng cua ăn sống, hoặc xay nước uống, giã đắp ngoài.
Có người còn cho rằng, ăn rau càng cua làm người mát, bớt táo bón, đi tiêu dễ dàng, người khỏe, tim bớt hồi hộp, có thể vì rau này có tính nhuận tràng và giàu vitamin C, kali.
Rau càng cua là rau ngon giòn, bổ mát, lạ miệng, là nguồn bổ sung nhiều vitamin vi lượng cần thiết cho cơ thể. Tuy nhiên, rau có tính hàn, người tỳ vị hư hàn đang tiêu chảy không nên dùng

Món ăn – bài thuốc từ cua đồng

Canh cua đồng là món canh giải nhiệt trong mùa hè, kích thích ăn uống và dễ tiêu hóa thức ăn. Y học cổ truyền và y học dân gian dùng cua đồng chữa ứ huyết khi bị chấn thương bầm giập. Y học hiện đại xác nhận: Trong cua đồng có nhiều calci phosphat nên rất tốt cho trẻ còi xương hay người bị loãng xương.

Bộ phận dùng: Cả con cua.
Thành phần dinh dưỡng: Có 12,3% protid; 3,3% lipid; 5.040mg% Ca; 430mg% P; 4,7mg% Fe; 0,01mg% vitamin B1; 0,51mg% B2; 2,1mg% PP; 0,12mg% B6; 125mg% cholesterol. Ngoài ra, có 0,25% melatonin. Mai cua có chất chitin.
Theo Đông y, cua đồng có vị mặn, tính hàn, hơi độc; có tác dụng sinh phong liền gân nối xương. Dùng trị nhiệt tà, bạt độc, trừ lở ghẻ và máu kết cục.
Kiêng kỵ: Không dùng cua đồng có mắt đỏ, có lông ở bụng, có chấm ở lưng và có khoang ở chân. Không được uống nước cua sống vì cua đồng có thể chứa ấu trùng sán lá.
Cua đồng dùng trong y học cổ truyền và y học dân gian:
- Chữa trẻ nhỏ còi xương, chậm biết đi: Cua đồng làm sạch, bỏ chân, càng, mai, yếm, rang nhỏ lửa cho vàng và khô. Tán bột. Dùng 15 – 20g quấy với bột gạo, cho trẻ ăn trong ngày.
- Chữa vết thương đụng giập, lở loét: Cua đồng 2 con, rượu 1 chén. Cua giã nát, cho rượu vào đun sôi, gạn lấy rượu uống, bã đắp vào chỗ đau (Nam dược thần hiệu).
- Chữa tâm trạng bồn chồn, kém ăn, ít ngủ: Cua đồng 200g, rau rút 1 – 2 nắm, khoai sọ 300 – 400g. Cua bỏ yếm, bỏ mai, rửa sạch, giã nát, gạn lọc lấy nước; rau rút bỏ rễ, cạo bỏ phần bấc, ngắt đoạn, rửa sạch; khoai sọ cạo bỏ vỏ, bổ nhỏ. Cho khoai sọ vào nước cua, nấu chín, khi gần được cho rau rút vào, đun sôi tiếp 5 – 10 phút. Ăn trong ngày, dùng 2 – 3 ngày.
- Giải nhiệt mùa hè trị lở ngứa: Cua đồng 200g, mướp hương 1 – 2 quả, rau đay 100g, rau mồng tơi 100g. Cua bỏ yếm, bỏ mai, rửa sạch, giã nát, gạn lọc lấy nước; mướp cạo vỏ, rửa sạch, cắt miếng; rau đay, rau mồng tơi rửa sạch thái đoạn. Đun sôi nước cua, cho các rau vào, đun thấy mướp chín là được.
- Trị viêm thận cấp: Cua đồng 250g, vỏ cây dâu 50g. Cua bỏ yếm, bỏ mai, rửa sạch, giã nát, gạn lọc lấy nước; vỏ cây dâu rửa sạch, cắt đoạn. Nấu thành canh, uống hết nước.
- Trị trướng bụng, chứng phù tim: Cua đồng tươi nấu cháo, ăn nóng.
- Chữa sưng tấy: Mai cua 10g, vảy tê tê 10g, gai bồ kết 10g. Mai cua sao vàng, vảy tê tê sao phồng rộp, gai bồ kết phơi sấy khô; tất cả tán bột. Uống với rượu.

Dược thiện từ món ốc nhồi hấp sả

Đông y cho rằng, ốc có tính hàn, vị ngọt mặn, quy vào kinh vị, đại tràng và bàng quang có tác dụng tiêu viêm, thanh nhiệt, lợi thủy có thể dùng trị chảy máu cam hoặc táo bón…; song lại là món ăn thích hợp cho những người béo phì muốn giảm cân.
Ốc có nhiều loại như ốc dừa, ốc đá, ốc nhồi, ốc bươu, ốc len…; chúng đều là những loại giàu dinh dưỡng. Phân tích thấy trong thịt ốc chứa 11,9% protid; 0,7% lipid; các vitamin (B1 0,01mg%; B2 0,06mg%; PP 1mg%); các muối (Ca 1.357mg%; P 191mg%). Ốc cung cấp 86 calo/100g thịt. Các chất đạm, mỡ, cacbua hydrat, canxi, photpho, sắt, các sinh tố B2, PP, A… có trong thịt ốc rất phù hợp sử dụng cho những người mắc chứng béo phì, bệnh tiểu đường… Nhờ vậy ốc có thể chế biến thành món ăn vừa bổ dưỡng lại phòng trị được nhiều bệnh. Trong dân gian, ốc cũng đã được chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu như luộc, xào, nấu chuối, chiên, hấp…
Để có thể áp dụng, dưới đây xin giới thiệu cách chế biến một món ăn tiêu biểu đó là “món ốc nhồi hấp sả”, món ăn này có công hiệu bồi bổ cơ thể, tăng cường sức khỏe khiến cơ thể kiện tráng, lại phòng ngừa được nhiều bệnh.
Nguyên liệu gồm: ốc nhồi 30 con, thịt lợn nạc dăm xay 200g, giò sống 300g, nấm hương (nấm đông cô) 50g, nấm mèo 50g, củ cải trắng 2 củ, lá chanh 10 lá, ngò rí, ớt hiểm 100g, hành tím 50g, tiêu xay 50g, tôm khô 50g, chanh 2 quả, tỏi 1 củ, sả 20 cây, gia vị: hạt nêm, đường, bột ngọt, nghệ, riềng 200g.
Cách chế biến: Ngâm ốc cho hết nhớt, rửa sạch, luộc sơ, khêu ra lấy phần thịt cắt hạt lựu. Riềng, nghệ, hành tím băm nhuyễn lấy nước mỗi loại khoảng 1 muỗng canh + một phần xác. Nấm đông cô + nấm mèo luộc, cắt nhỏ. Tôm khô ngâm cho mềm, cắt hạt lựu. Trộn đều hỗn hợp các thứ trên, thêm vào hạt nêm, bột ngọt, đường, tiêu, củ sả bằm nhuyễn.
Vỏ ốc sau khi lấy hết phần ruột thì luộc lại với nước gừng hoặc rửa bằng rượu để khử mùi tanh. Nhồi hỗn hợp trên vào vỏ ốc (không chặt quá, vì thịt còn nở), xếp lẫn vào phần thân xả cắt khúc, rồi hấp trong khoảng 12 phút là chín. Dùng củ cải trắng và ngò rí để trang trí. Chấm ốc với nước mắm gừng, thêm sả và lá chanh, ăn nóng

Cá trê – Bổ thận, dưỡng huyết

Cá trê là loài cá nước ngọt, sống ở ao hồ, ruộng bùn, những chỗ tối tăm. Trong 100g thịt cá trê có 16,5g protid; 11,9g lipid; 20mg Ca; 21mg P; 1mg sắt; 0,1mg vitamin B1; 0,04mg vitamin B2; 1,4mg vitamin PP và cung cấp 178 calo. Theo y học cổ truyền, cá trê vị cam, tính ôn, có tác dụng ích âm, khai vị, thúc đẩy việc tạo sữa, lợi tiểu tiêu thũng, bổ huyết.


Một số tác dụng của cá trê:
Dưỡng huyết điều kinh: cá trê 250g, đậu đen 150g, bột canh, nước đủ dùng. Cá trê làm sạch, bỏ mang, ruột, chặt khúc. Đậu đen rửa sạch, đậu đen hầm chín rồi cho cá trê vào hầm cùng với đậu đen tới khi cá chín nhừ, nêm bột canh là dùng được. Món ăn có tác dụng kiện tì, dưỡng huyết, điều kinh.
Bổ thận: cá trê 1 – 2 con, đậu đen 150g. Cá trê khử mùi tanh, nhờn, làm sạch, giữ nguyên đầu, lọc bỏ xương đẻ riêng. Ninh xương cá với 300ml nước để làm nước dùng. Đậu đen xay thành bột, cho vào nước xương quấy đều rồi đun sôi, để nhỏ lửa, cho cá vào nấu chín, nêm gia vị là dùng được. Ăn trong 15 ngày, bệnh sẽ cải thiện rõ ràng.
Chữa loạn kinh: cá trê 300g, ngải cứu 100g, hồng hoa 12g, bột đậu đen 120g, trần bì 6g. Cá trê làm sạch, cho vào nồi cùng bột đậu đen. Ngải cứu, hoa hồng, trần bì cho vào túi vải, buộc kín, cho nước vào đun nhỏ lửa, khi các thứ trong túi vải nhừ bỏ ra, nêm gia vị là dùng được.
Chú ý: Không nên ăn cá trê với rau kinh giới.

Cháo thuốc cho người viêm mũi dị ứng

Viêm mũi là bệnh dai dẳng, thời tiết khí hậu, môi trường không khí thay đổi là bệnh dễ tái phát. Triệu chứng của bệnh: hắt hơi, nghẹt mũi, chảy nước mũi, ngứa trong mũi, niêm mạc mũi bị phù nề, thay đổi màu sắc. Nhiều trường hợp vách ngăn bị cong vẹo, biến dạng làm tắc nghẽn một bên. Viêm mũi thường kèm theo đau đầu, váng đầu, đường thở không thông, nhiều khi người bệnh phải thở bằng miệng.
>> Viêm mũi dị ứng dễ nhầm với viêm xoang
Để điều trị chứng bệnh này, ngoài việc dùng thuốc, Đông y đã sử dụng những dược thiện để hỗ trợ điều trị và cải thiện tình trạng bệnh tât.
Cháo tim lợn – cát cánh:
Nguyên liệu: Tim lợn 1 quả, cát cánh 20g, gạo tẻ 100g, gừng, hành khô, rau gia vị, chanh ớt vừa đủ.


Cháo tim lợn - cát cánh
Cách làm: Tim lợn thái lát mỏng, ướp gia vị để riêng. Rau thơm rửa sạch thái ngắn, gừng sống đập dập băm nhỏ, để riêng. Cát cánh cùng 2 bát nước nấu cho sôi 15 phút. Lấy nước thuốc này cùng gạo nấu thành cháo, khi cháo được cho tim lợn vào nấu thêm ít phút cho chín đều, múc cháo ra bát tô thêm gia vị, rau thơm, chanh ớt, ăn nóng.
Công dụng: Tim lợn bổ tâm, bổ khí. Cát cánh chống viêm, chống dị ứng và có tác dụng co mạch. Rau gia vị như kinh giới, tía tô, hành hoa, sinh khương… chống viêm và tuyên thông phế khí giúp cho đường hô hấp được thông suốt, giảm tiết. Bệnh nhân viêm mũi, tắc mũi, chảy nước mũi nên dùng.
Cháo chân giò lợn – trần bì, bán hạ, sinh khương:
Nguyên liệu: Chân giò lợn 1 cái (chỉ lấy phần xương và móng), trần bì 12g, bán hạ chế 12g, sinh khương 6g. Gạo tẻ 100g, các loại rau, gia vị, chanh ớt…
Cách làm: Chân giò làm sạch chặt miếng cùng với gạo cho vào nồi. Dùng 1 ấm khác bỏ trần bì, bán hạ, sinh khương cùng 2 bát nước nấu sôi 15 phút, lấy nước này cho sang nồi đã có sẵn gạo và chân giò, hầm cho chín kỹ thành cháo (nếu thiếu nước thì chế thêm vào cho vừa đủ). Các loại gia vị đã rửa sạch thái ngắn cùng chanh ớt chuẩn bị sẵn. Khi cháo được múc cháo ra bát tô, nhanh tay nêm gia vị, các loại rau thơm, chanh ớt vừa đủ, ăn nóng.


Móng giò dùng để nấu chân giò - trần bì bán hạ sinh khương
Công dụng: Hạ khí, chống viêm, chống xuất tiết, tuyên thông phế đạo, tác dụng co mạch. Dùng món này người bệnh giảm đau, thông đạt đường hô hấp, khỏi váng đầu, khỏi ngạt mũi, hắt hơi, còn có tác dụng kháng histamin.
Tính năng tác dụng của các loại rau thơm đã sử dụng: Tía tô: giải cảm, tiêu đờm, thuận khí trừ ho; Kinh giới: trừ phong, chống dị ứng, chống ngứa; Lá hẹ: bổ thận nạp khí, tính ôn, lợi chín khiếu, trừ hàn; Trần bì: thông khí giảm ho, bổ tỳ lợi phế; Bán hạ: hạ khí, tiêu đờm, trừ thấp; Sịnh khương: vị cay, tính ấm, giải cảm, tiêu độc; Quả chanh, nước chanh: vị chua tính mát, giải nhiệt, cung cấp vitamin C cho cơ thể; Hành hoa: chống viêm, trừ tà, thông đạt đường hô hấp.
Lương y Trịnh Văn Sỹ