rong y học cổ truyền, có hai loại chuồn chuồn được dùng để làm thuốc: Loại thứ nhất, còn gọi là Thanh đình, Thanh linh…, tên khoa học là Anax parthenope, vị ngọt, tính hơi lạnh, có công dụng bổ thận ích tinh, thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, chỉ khái định suyễn, thường được dùng để chữa liệt dương, di tinh, hầu họng sưng đau, hen suyễn, ho gà…
Trong Lĩnh Nam bản thảo, Hải Thượng Lãn Ông viết :
“Thanh linh ta vẫn gọi chuồn chuồn
Vốn thực loài sâu sinh ở nước,
Không độc, hơi lạnh, mạnh chân dương.
Sáp tinh, ấm thuỷ, thông lợi được”
![]()
Xích thanh linh (Crocothemis Servillia)
|
Một số cách dùng Thanh linh chữa bệnh cụ thể như sau:
- Liệt dương, di tinh: chuồn chuồn 4 con, sấy khô, tán bột, chia uống 2 lần sáng chiều với nước ấm.
- Ho gà: chuồn chuồn 2 - 3 con, sấy khô tán bột uống.
- Hen suyễn do thận hư: chuồn chuồn 10 con, tắc kè 1 đôi, đường phèn 10g, tất cả sấy khô, tán bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5g.
- Hầu họng sưng đau: chuồn chuồn 4 con sấy khô tán bột uống với nước sắc 30g ô mai hoặc nước sắc 30g huyền sâm và 10g cát cánh.
Loại thứ hai, chuồn chuồn đỏ, còn gọi là Xích thanh linh, tên khoa học là Crocothemis servillia (Drury), vị ngọt, tính hơi lạnh, có công dụng bổ thận ích tinh, trấn thống bổ huyết, nhuận phế chỉ khái, được dùng để chữa đau đầu do thiếu máu, chóng mặt, ho gà, liệt dương, di tinh, hầu họng sưng đau…
![]()
Thanh linh (Anax parthenope)
|
Ví dụ như:
- Đau đầu, chóng mặt do thiếu máu: chuồn chuồn đỏ 3 con, sấy khô trên viên ngói nóng, tán bột, chia uống 3 lần trong ngày.
- Ho gà: chuồn chuồn đỏ 5 con, xuyên bối mẫu 5g, hai thứ sấy khô tán bột, chia uống 2 lần trong nagỳ với một chút mật ong.
- Liệt dương: chuồn chuồn đỏ 5 con, tiên linh tỳ 30g, toả dương 20g, ba kích 20g, nhục thung dung 15g, sơn thù 6g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
-Di niệu (đái dầm và đái són): chuồn chuồn đỏ 3 con, tang phiêu tiêu 10g, kim anh tử 15g, phúc bồn tử 10g, thỏ ty tử 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Thạc sĩ Hoàng Khánh Toàn










Cà hôi còn gọi là cây la, La rừng, Ngoi, Chìa vôi, Toong muốc, Phô hức (Tày), Co sà lang (Thái), Sung mou (Luang prabang – Lào)… Tên khoa học là Solanum verbascifoloum L. (Solanum pubescens Roxb hay Solanum erianthum Don), thuộc họ Cà (Solanaceae).
Nghệ đen (nga truật) là vị thuốc rất phổ biến ở các vùng nông thôn, hầu như tất cả các tiệm thuốc bắc đều có bán, giá cả dễ chịu. Các bà các chị rất ưa chuộng nó, vị thuốc có nhiều công dụng mà giá cả lại hợp lý với túi tiền nông dân.
Cải xoong (Nasturtium officinale hoặc Nasturtium microphyllum) là một loại thực vật thủy sinh hoặc bán thủy sinh, sống lâu năm và lớn nhanh. Chúng có nguồn gốc từ Châu Âu, Trung Á và là một trong số những loại rau ăn được con người dùng từ rất lâu.
Ở nước ta, mọi người thường xắt lát quả mướp đắng chưa già, ngâm vào nước muối để giảm chất đắng, đem nấu canh hay làm món xào hoặc nhồi thịt xay vào ruột quả mướp rồi đem nấu canh.